300x250 AD TOP

Trần Hải Anh (PD.Châu Nhật Vi)

Powered by Blogger.

About Me

My photo
Cuộc đời của Con là công trình của Ba, Mẹ.

VIỆT NAM & ĐẠO PHẬT

TẠI SAO??? - Ở VIỆT NAM,  CÁI GÌ HAY HO  CŨNG THUỘC VỀ/LIÊN QUAN TỚI ĐẠO PHẬT Đó là vì những điều lịch sử cơ bản như sau: (*) 1.      Thời...

Search This Blog

Search This Blog

Translate

Translate

Pages

Showing posts with label Blog. Show all posts
Showing posts with label Blog. Show all posts

Tuesday, August 11, 2020

Lá thư từ ông nội



Ông nội ghét những cuộc tán chuyện vô nghĩa chỉ duy nhất một tác dụng là giết thời gian – Vì khi ông nội làm việc, thậm chí ông nội còn chẳng cần phải tắm. Thiết tha gì chuyện chém gió, chém mưa?

Ông nội thích làm việc và chỉ thích làm những chuyện có ích cho công việc. Công việc của ông nội là gì? Nhiều người hỏi và theo cách nghĩ của họ thì phần lớn trường hợp ông nội luôn nói "Tớ chẳng làm gì cả".

Nay ông nội nói cho thằng cháu nội nghe, công việc của ông nội là tất cả những gì ông nội cảm thấy "Cần làm" và "Muốn làm". Như việc ngày hôm nay, ở đây, trong lúc này, ông nội đang ngồi viết lách tâm sự với thằng cháu nội của ông vậy.

Ông chả chơi!

Ngày hôm nay, đây là việc ông nội muốn làm và cần phải làm - Chính là công việc của ông nội. 

(*)

Thằng cháu nội thật đáng ghét?

Thằng cháu nội thật dễ thương?

v.v...

Ông nội chẳng bận tâm. Cho tới khi có vẻ giữa hai ông cháu dường như cũng từng có một chút nhân duyên nào đó, khi nhận thấy: Thằng cháu nói ông nội thấm và ông nội “hót” -  thằng cháu nội chịu vui vẻ "đón lắng nghe". 

Chuyện tưởng thường mà chẳng thường. Không phải dễ mà giữa ti tỉ người trên thế giới tìm được người mình nghe được và nghe mình được ku ạ.

Từ buổi còn vô minh mông muội - Chưa gặp được Phật pháp, chỉ hăng hái lẽo đẽo theo bố tới chùa để ăn chuối – Nhưng ông nội đã luôn có một cảm giác mơ hồ mà bền bỉ về mối nhân duyên giữa mình với mọi thứ xung quanh. Và cho tới ngày nghe được những lời Phật dạy - Hiểu được những lời Phật nói: Cuộc đời ông nội đã lật sang một trang mới thật "hoành tráng"! - Mọi thứ đều có cách để "đặt xuống".

Thật nhẹ.

Thật khỏe.

(*)

Có ai nói với thằng cháu nội rằng cháu rất cứng cỏi, mạnh mẽ, bản lĩnh và bất cần đời - Chẳng sợ ai chưa?

Ông nội thì thấy thằng cháu nội của ông nội chất chứa thật "quá lắm"! những nỗi buồn, sự cô đơn, mơ hồ, bất định, hoang mang, lạc lõng. Tất cả những thứ đó như một màn sương mù dày đặc che kín, phủ lấp đi: Một trái tim chân thật - Một tâm hồn cao thượng - Một tình thương yêu ấm áp. Kết quả là một cuộc sống buồn phiền và chán ngán chẳng một phút nào ngơi nghỉ - Luôn đeo bám lấy thằng cháu nội “mới nhặt về” của ông nội.

(*)

Thằng cháu nội nghĩ xem, nếu một người sự thực chỉ vay nợ thằng cháu nội 10 ngàn, nhưng tất cả mọi người đều "nhầm tưởng" tin chắc rằng người đó vay nợ thằng cháu nội tới 10 triệu đồng!

Chuyện là vậy thì liệu thằng cháu nội có vì vậy mà dù người đó đã trả đủ 10 ngàn nhưng vẫn quyết theo đòi cho đủ 10 triệu đồng không? - Đòi được thì coi như "bình thường" - Không đòi được thì oán trách, giận hờn!

(*)

Tỉ tỉ mũ *ti ti* chuyện trên cuộc đời này ông nội chẳng thể biết được, cũng chẳng thể nghe hết được, vậy nên ông nội chỉ chọn nghe một điều thôi cho khỏe tai và khỏe tâm.

Ông nội chọn nghe lời Phật nói.

Phật nói gì?

Phật nói rằng: Thế gian này chi phối bởi Nhân quả. Mỗi con người từ chính nghiệp lực mình mà sinh ra. Hoàn cảnh sống của mình thế nào, người khác đối xử mình ra sao – Yêu thương hay ghét bỏ, oán hận hay căm hờn, hiểu sai hay hiểu đúng, vu oan hay tâng bốc, khắc nghiệt hay cưng chiều, v.v… - Hết thảy đều là nghiệp của chính mình, Nhân chính mình trồng – Quả chính mình ăn. Như nợ chính mình cho vay và người khác trả lại – Như nợ chính mình đi vay và giờ mình phải trả lại.  

Chuyện đúng – sai, phải – trái ở đời là muôn trùng, vạn bể - Nhưng ẩn bên dưới chỉ một “Quy tắc” mà thôi – Sự “Công bằng của Luật Nhân Quả”.

Thằng cháu nội thấy: Nếu “khôn lanh” thì ta nên chọn cái nào? - Nắm chỉ một đầu dây thôi! Hay cứ mãi chạy theo đám dây con con mà tua tủa - mà vây bủa mỗi lúc một nhiều hơn?

Cuộc đời là khổ nếu chọn rúc vào bụi rậm.

Cuộc đời là thông nếu chọn vào cửa “Không” con ạ.

Con đã vào chùa nhiều lần lắm rồi, nhưng đã bao giờ con thực sự bước vào cửa “Không” mà Phật vì quá thương yêu mình đã không quản ngại đến với bãi bùn này để khai mở không?

(*)

Buông đi con ạ. Buông cả thương chứ đừng nói là giận ghét.

Vì cả thương và ghét đều là những tấm vải che mắt mình, khiến cho mình không còn thấy rõ được lối đi – Khiến cho mình mỗi ngày một xa rời sự thật, xa rời những điều đúng đắn và những điều tốt đẹp.

(*)

Vì không thương con nên ông nội biết rõ: Tự trong con, cũng như trong tất cả mọi người, ai cũng có sự thông minh và hiểu biết để phân biệt điều đúng điều sai. Vì không thương con nên ông nội biết rõ nếu ông nội đá cho con vài phát trong lúc con “lên cơn điên” muốn hủy hoại chính mình thì con sẽ tỉnh táo trở lại. Vì không thương con nên cho dù con có sa đọa thì ông nội vẫn vững vàng mà làm tí tẹo chỗ dựa cho con nếu có lỡ một ngày nào con vấp ngã – Có chút còn hơn không nhỉ? Đâu có sao.

Đấy. Thế là cái ích của sự “không thương”.

Sống cần tỉnh hơn là cần “thương thường thường” con ạ. Tỉnh được rồi thì sẽ thấy rõ được những việc cần làm và đủ năng lượng để làm những việc phải làm.

 (*)

Sao lại ghét?

Chỉ là vì “đòi” mà chẳng được thôi.  Đâu có gì là cao thượng.

Người nào khác thì ông nội chả kỳ vọng hiểu hoặc chả dám nói – Nói sợ “nó” chưởi. Ngại “nó” không hiểu lại bảo ông nội ngu. Vì dẫu gì ông nội cũng còn chút “sĩ diện” cần phải giữ.

Nhưng con thì ông nội mong rằng con sẽ hiểu. Vì đây mới chính là “kiểu tình thương” mà ông nội muốn dành cho con - Muốn con hiểu những điều con chẳng bao giờ muốn hiểu khi con còn chưa hiểu. Và nếu con chả hiểu mà lại thấy ông nội “ngu”, chả thèm chơi với ông nội nữa thì thôi - Vì ông nội “không thương” con mà. Ông nội chỉ đủ sức để gắng gượng thương chính mình thôi. Loài người thật “khó thương” con ạ.

(*)

Tình đời nói rằng cha mẹ phải thương con, phải có trách nhiệm với con tới trọn đời. Nhưng thương yêu và trách nhiệm nặng nề và mệt mỏi lắm – Đó là một khoản “Nợ” rất lớn. Liệu có phải đứa con nào cũng “đã từng” cho “cha mẹ” mình “Nợ” đủ số đó hay không?

Đã là người Phật tử thì đừng nói chuyện một đời!

Ta đi trong luân hồi vay vay – trả trả chẳng tính kể hết số đời, số kiếp. Đã hiện thân là con người thì ngoài chút phước ít ỏi, còn lại chẳng phải toàn là nghiệp sao? Chẳng phải ngoài chút tiền ít ỏi trong túi là những món nợ “đại bác” trong ngân hàng Nhân Quả sao?

Thế cho nên đời mới lắm nỗi buồn, thế cho nên đời mới nhiều nỗi khổ.

Thế cho nên bất hạnh có gì lạ? – Thế cho nên người đối xử xấu mình có gì phải oan ức?

Ta chẳng đủ thiện lành để cuộc đời này luôn là “công bằng” – Kiểu “đong đếm” mắt thấy tai nghe thường tình trong thế giới này đâu con ạ.

Người đó xấu với mình không phải vì người đó xấu mà vì thật sâu xa muôn đời - Chính do ta đã ngu si mà tạo tác nghiệp xấu.

Vậy nên không trách người – Không ghét người vì sự thật từ “nguyên thủy” là: “Người” đâu có lỗi?

Vậy nên không trách mình vì quá khứ đã qua không thể quay trở lại: Chỉ có Hiện tại là giây phút nhiệm màu: Để cải tạo quá khứ - Để “tô vẽ” tương lai.



Đóng vết thương mình lại mà nhìn ra xa cuộc đời đi con!

 

Nơi ngoài kia bao phận người đau khổ,

Biết bao nhiêu oan trái ở trên đời.

Khi con chịu Thấy - Nhìn bất hạnh,

Muôn triệu người chẳng ai kém hơn con.  

 

Còn nếu con chọn “Oán trách” làm đầu,

Đừng hỏi sao tim con đầy lỗ thủng.

Khi đã chọn tắm mình trong đau khổ,

Đừng hỏi sao hạnh phúc lánh xa con.

 

Khi còn thở là “Vẫn” còn sự sống,

Có biết không – “Đó” hạnh phúc nhất đời!

Con cần gì mong ước xa xôi?

Những ước vọng chóng tan vào hư ảo,

Theo bóng chớp giả dối mang thân người.

 

Buông đi con cả buồn thương, giận ghét

Chẳng ích gì rước vướng mắc vào tim

Để óc tim và ruột gan trống rỗng!

Cho tỉnh giác mãi mãi chảy tuôn trào.

 

Hạnh phúc thực chỉ do mình cấy hái,

Đừng đợi trông bóng hư ảo từ ai

Không còn mong thì chẳng còn khắc khoải,

Lẽ giận hờn – thương ghét bỏ ngoài tai.

_Thương tặng “Thằng Cháu Nội.”_



 

Sunday, May 10, 2020

TÌNH ĐỜI "XẤU XÍ"

Đức Phật là một Vĩ nhân được cả Nhân loại Kính trọng - Ngay cả Liên Hiệp Quốc cũng quyết định lấy ngày Tưởng Niệm Đức Phật hàng năm (Đại lễ Vesak) làm ngày Văn Hóa Thế Giới để Tôn vinh NGƯỜI vì những đóng góp lớn lao cho Hòa bình Thế giới.
Những vĩ nhân kiệt xuất của Đất Nước trong suốt chiều dài Lịch sử Dựng nước và Giữ nước của dân tộc Việt Nam như vua Lý Thái Tổ, danh Y Tuệ Tĩnh, Quốc Công Tiết chế Trần Hưng Đạo, Ba Vua -  Ba lần đánh tan  Đế quốc Nguyên Mông: Trần Thái Tổ, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, v.v… đều được trưởng thành và hun đúc đạo đức, tài năng, bản lĩnh trong tinh thần Yêu Nước và những lời Đức Phật dạy.
Đạo Phật từ xa xưa đã là một di sản Văn hóa - Tinh thần quan trọng bậc nhất của Đất nước ta. Giữa thời kỳ giặc Pháp đô hộ, đàn áp, kìm kẹp không lối thoát – Cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc (Thân sinh  ra Bác Hồ) đã khẳng định: Muốn giải phóng Đất nước thì trước hết phải DỰNG lại Đạo Phật sau sự “Đánh phá & Đàn áp” dã man của Ngoại bang Xâm lược.

Trong hơn 4000 năm qua: Từ hơn ngàn năm chống Phong kiến Phương Bắc, hơn trăm năm chống Đế quốc/Thực dân - Đạo Phật luôn đồng hành cùng Dân tộc - Chở che cho Nhân dân ta, Chiến sĩ ta, Tướng Lãnh ta, Chủ soái của ta – Giúp cho Dân tộc ta biết bao phen thoát hiểm nguy, vượt nạn tai, khổ ách.

(*)

Trong khi dân Việt ở khắp nơi trên Thế Giới đi tới đâu cũng xây chùa, đúc tượng, tổ chức thờ phượng Đức Phật trang nghiêm thì việc đặt hình ảnh Đức Phật ở những quán ăn, quán rượu, hay quán massage là không hợp thuần phong mỹ tục – Do đó, thời gian vừa qua: Quán “Buddha Bar” đã bị thu hồi giấy phép kinh doanh vì sử dụng hình ảnh Đức Phật để trang trí – Làm mất tôn nghiêm của NGƯỜI.

Tới bây giờ thì lại là chuyện của chủ tiệm “Budd spa & retreat.”
Hình ảnh của Đức Phật có liên hệ gì với những việc: giảm béo cấp tốc, trị mụn đông y, viêm da cơ địa, thần kinh tọa, tê bì chân tay, hay thậm chí là trị yếu sinh lý nam nữ, vô sinh hiếm muộn, chăm sóc bầu… mà lại trang trí hình Phật ở những nơi như thế?
Là một người bình thường, liệu chúng ta có chấp nhận hình ảnh người mà chúng ta kính yêu treo ở những nơi như thế không?
Xét về khía cạnh Đạo đức: Tôn trọng tín ngưỡng tôn giáo của một Quốc gia – Dân tộc đạo đức căn bản của một con người Văn minh, có hiểu biết – Hành vi của chủ tiệm Budd spa & retreat là không phù hợp với đạo đức căn bản của một người bình thường chứ đừng nói là những người có lòng Tôn kính Đức Phật – Như “Tinh thần” mà chủ tiệm lợi dụng để “Xảo biện” cho hành vi yếu kém đạo đức của mình.
Xét về khía cạnh Kinh doanh: Nhìn thấy một quán lớn (Buddha Bar) vừa bị tước giấy phép hoạt động mà vẫn tiếp tục hành vi tương tự - Thậm chí cho chạy “Quảng Cáo” mạnh mẽ! – Liệu có hợp lý không? Đây có phải là hành vi Kinh doanh "đơn thuần" vì lợi nhuận hay không?
Như vậy, động cơ phía sau của chủ tiệm Budd spa & retreat có là gì thì chắc chắn cũng là “Mờ ám” “Mất đạo đức” - Cần phải nhận được sự xử lý thích đáng cả về “Lý và Tình” – cả về “Đời và Đạo”.


(***)

ĐẠO PHẬT ĐỒNG HÀNH CÙNG DÂN TỘC


















Tuesday, June 18, 2019

Làm chủ lời nói


Lời nói là phương tiện giao tiếp ở con người – Là công cụ thiết lập (làm quen) và vận hành (duy trì) các mối quan hệ xã hội. Qua lời nói ta thiết lập các mối quan hệ xung quanh mình và các mối quan hệ ấy chính là chất liệu để hình thành “môi trường sống” của ta – Tác động đến tính cách, cuộc đời và số phận của ta. Do đó, “Lời nói” cũng là một trong những dữ liệu quan trọng để dự đoán quá khứ, hiện tại và tương lai của một con người theo cả Đông phương học và Tâm lý học phương Tây.

Qua lời nói, chúng ta ngầm thông báo tới mọi người nhiều “phẩm chất” nội tâm của mình như: đạo đức, cá tính, trình độ, quan điểm, cách nghĩ, lối sống, v.v… Người giọng nói vang vang có phẩm chất khác người có giọng nói thều thào, yếu ớt. Người có lời nói chua chát/khó nghe thì thường hay nóng nảy, hung dữ, dễ làm mất lòng người khác nên cũng khó thành công. Người có giọng nói êm ái mà thương yêu thì khác người có giọng nói êm ái mà lẳng lơ, đa tình, đa cảm, yếu đuối, thiếu lập trường, dễ bị dụ dỗ, lường gạt – Và hoàn toàn trái ngược với người có giọng nói “êm dịu” mà cương nghị, dứt khoát, đâu ra đó, v.v… Bởi vậy, khoa học Tướng số coi trọng “giọng nói” hơn các đặc điểm trên khuôn mặt rất nhiều.

Nói oang oang là một nội tâm nông cạn, thiếu bản lĩnh, thiếu chiều sâu; nói quá nhỏ là một nội tâm vị kỷ và thâm hiểm; hay “lầm bầm” một mình là tiểu nhân; hay xúc phạm người khác là người nhiều sân hận; nói quá nhiều là một bản ngã thích thể hiện mình, v.v…

Nếu trong lời nói của ta có những “từ” hoặc “cụm từ” mang tính cách phẫn nộ thái quá (muốn “loại bỏ”“trừ diệt” một ai đó/một cái gì đó) thì chứng tỏ trong lòng ta đang thiếu vắng lòng “từ bi” và cảm thông. Khi lời nói và tâm ý không “tương thích” với nhau (nghĩ một đường, nói một nẻo) thì ta đang “xài” lối sống giả dối. Ngay cả khi có bất đồng không thể “cho qua” mà vẫn giữ được lời nói khả ái, dịu dàng, không thô tháo, không “hiểm” ý sâu cay là biểu hiện của một tâm hồn đạo đức  sâu dày và một nội lực mạnh mẽ có khả năng “kiểm soát” bản năng của mình.

Một người muốn thành công trong công việc và đời sống thì lời nói phải có lý lẽ - Được trình bày rành mạch, rõ ràng, có khả năng hiểu và thuyết phục được người nghe. Nhưng quan trọng nhất vẫn là giữ cho được một đời sống đạo đức, vị tha, chăm chỉ rèn luyện bản thân và không ngừng nỗ lực, cống hiến vì lợi ích chung của mọi người – Số người ta phục được càng nhiều thì “giá trị” trong lời nói của ta càng “tăng cao”.

Bằng cách nào để “luyện tập” được một giọng nói “hay” – truyền cảm, đi sâu vào lòng người và có sức tác động tới hành vi của người khác?

Không gì khác hơn là phải “rèn luyện” cho tấm lòng của mình thực sự phát khởi được lòng cảm thông, thương yêu với tất cả những đối tượng mà mình tiếp xúc. Khi ta thực sự thương yêu mọi người thì ta sẽ luôn “sợ hãi” làm cho họ phải “khổ” vì lời nói của mình – Từ đó mà ta sẽ cẩn thận hơn, giữ gìn hơn, tinh tế hơn và nhẹ nhàng hơn trong tư duy cũng như lời nói mỗi ngày – Lời nói, giọng nói vì vậy sẽ dần “hay” hơn, có sức truyền cảm hơn.

Và tất nhiên là nếu mắc phải các khuyết tật về giọng nói như: nói không nên lời, nói lắp bắp (cà lăm – không suôn sẻ); nói ngọng nghịu (phụ âm không rõ ràng); nói quá nhanh (hấp tấp, vội vàng, mất chữ, nuốt chữ); nói quá nhỏ; v.v… thì ta cần phải luyện tập rất nhiều để khắc phục cách phát âm của mình.

(*)

Đức Phật dạy chúng ta, lời nói chính là một trong ba cửa ngõ làm nên số phận của mỗi người (bên cạnh ý nghĩ và hành động). Từ lời nói của chúng ta mà hoặc điều thiện được sinh ra – mọi người yêu thương, đoàn kết, thân ái với nhau; hoặc điều ác sinh ra khi mọi người bị “xúc não”: sân hận, bực bội hay đau khổ, muốn lìa bỏ nhau, v.v… Do đó, mỗi người con của Phật (Phật Tử) phải luôn ý thức đến đạo đức trong lời nói của mình. Phải luôn có ý thức giao tiếp với mọi người bằng những lời “ái ngữ” – chứa đầy thương yêu và lòng tôn trọng, bất kể đối diện mình là người nhỏ tuổi hơn, địa vị thấp hơn, vật chất ít hơn hay thậm chí phẩm giá ít hơn. Cho dù chỉ len lỏi một ý nghĩ rất nhỏ của sự “khinh thường” thì ta cũng biết rằng chính mình đã tự gieo vào dòng “nghiệp quả” của mình một hạt mầm bất thiện.
Nếu lòng mình chưa thể “ngay lập tức” mở ra để thương yêu mọi người thì phải học cách thay đổi “Lời nói” của mình trước: Cách xưng hô phải đúng mực, nhịp điệu – giọng điệu phải nhún nhường, từ ái, nhẹ nhàng. Khi ta có “thiện ý” thì trước tuy là “nỗ lực” nhưng sau sẽ dần thành “chân thật”.

Đừng chê bai người khác khi lòng mình chưa đủ tình thương yêu đối với họ. Đừng nói những điều người khác không muốn nghe dù là lời đạo lý – khi chưa phải duyên, phải thời. Và khi nói bất cứ một lời nào cũng phải cân nhắc tác động “lâu xa” cùng “tỏa rộng” của nó: Liệu khi lời mình nói với người này – trong hoàn cảnh này mà lan tới tai người khác – trong hoàn cảnh khác thì “hiệu ứng” sẽ như thế nào để lựa chọn lối nói cho phù hợp.  

(*)

Nhiều người luôn cư xử thô tháo, sẵng giọng, hấp tấp , hơn thua – chua chát vì nghĩ rằng như vậy mới là “sống thật” mới là “chân thành” – Còn làm chủ lời nói, nói lời hòa nhã, từ ái trong mọi hoàn cảnh là biểu hiện của một sự “giả dối” và “không chân thật”. Nhưng ta có đếm được biết bao nhiêu người đã đau khổ vì “sự chân thật” đó của ta hay không?

Ai cũng có cái tôi và bất kể lời nói thô tháo nào cũng có thể “khoét sâu” vào đó. Tại sao những người “chiến hữu” lại sẵn sàng đâm dao vào nhau trên bàn nhậu khi không còn tỉnh táo? Bởi cho dù “quá thân thiết” cũng không đồng nghĩa với việc chúng ta có thể hoàn toàn thoải mái với những “ngôn từ” thiếu sự tôn trọng dành cho nhau.

Những người con xa cha mẹ “hay gắt gỏng” để tìm sự ngọt ngào ở bên ngoài; những người chồng rời bỏ gia đình để đi theo những tiếng gọi “êm ái” hơn; những người mẹ bỏ con – những người vợ bỏ chồng vì những lời đương mật nhan nhản hàng ngày đâu có hiếm.

Xả qua "đường miệng" những khó chịu, bực dọc trong tâm mình không những không khiến tâm trạng tốt hơn mà còn làm mọi chuyện tồi tệ hơn rất nhiều. Ta không vui thì ta đi "vung vãi" nỗi buồn và nỗi đau cho người khác sao? - Ai cũng biết điều đó là không nên, nhưng vì chúng ta không đủ sức "làm chủ" bản thân mình - làm chủ lời nói mình nên sau cùng ta luôn là người phải hối hận.

(*)

“Lời nói ngọt ngào” thực sự là một nhu cầu căn bản trong đời sống của mỗi chúng ta. Đừng xem thường nó mà hãy cố gắng để đáp ứng nó mỗi ngày cho mọi người xung quanh mình.
“Lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. 


Kín đáo


Ai trong chúng ta cũng có “Cái tôi” – Nhưng “Cái tôi” là gì? Là thân thể, ý nghĩ, quan điểm, thành kiến hay sở thích yêu ghét của mỗi người?

Nói chung là ai cũng có cảm giác về một “cái tôi” trong mình rất lớn, vì chúng ta luôn bị khó chịu, giận tức, bực bội, thậm chí khi cuồng bạo còn có thể đánh đập – mắng mỏ người khác không thương tiếc, v.v…vì “thấy” cái tôi của mình bị động chạm.

Nhưng thực tế là chẳng ai “nhìn” thấy “cái tôi” này bao giờ và thực sự là “cái tôi” của mỗi người hoàn toàn chỉ là những ảo ảnh trong tâm lý – Phụ thuộc hoàn toàn vào tâm lý và biến đổi hoàn toàn theo tâm lý nếu không học được cách “kiểm soát bản năng”..

Khi tâm lý của ta nhẹ nhàng, an vui thì “cái tôi” của ta rất dễ thương, dễ chịu với mọi người - Nhưng khi tâm lý của ta bất ổn, bực bội, nóng giận thì “cái tôi” của ta cũng trở nên rất khó chịu theo. Đó là nguyên nhân của hiện tượng ngay trong một con người – ngay trong cùng một ngày, luôn có thể xuất hiện rất nhiều trạng thái “tính cách” (cái tôi) khác nhau - Tâm lý càng bất ổn thì tính cách càng không ổn định – “Cái tôi” càng dễ bị tổn thương và chúng ta càng trở nên dễ hờn, dễ giận - Hay nói cách khác là “cái tôi” của chúng ta càng to và mọi người càng khó để “nuốt cho trôi”. Tóm lại là “tâm lý” thay đổi thì “cái tôi”  và “tính khí” đồng thời thay đổi theo.


(*)

Ego (Ảo ảnh về “Cái tôi”) luôn khao khát được “vượt trội” – “hơn người”: Nên tất cả chúng ta đều rất thích nói về bản thân mình và những điều liên quan tới bản thân mình – Từ sâu trong bản năng, tất cả chúng ta đều bị tâm lý “thèm khát mãnh liệt” sự ngưỡng mộ từ người khác “ngấm ngầm” chi phối. Tất cả chúng ta đều rất thích “khoe khoang”.

Tâm lý “khoe khoang” ẩn dấu kín đáo trong những người đã trưởng thành và đang trong trạng thái tinh thần “tỉnh táo” (Không bị các chất kích thích làm tê liệt). Nhưng khi chúng ta còn là trẻ con hoặc trong những trạng thái tinh thần bị kích động mạnh – mất sức tỉnh giác (say rượu, say thuốc kích thích, khi quá vui – quá buồn – quá giận, …)thì “cái tôi” của chúng ta hiện bày rất rõ: Chúng ta tự khen mình,tự kể lể công trạng của mình và luôn sẵn sàng thổi phồng – phóng đại mọi chuyện chỉ để làm nổi bật “cái tôi” của mình. 

Những cảm xúc hình thành thái độ “ngợi khen” hay “khinh bỉ” tuy nằm trong tâm người khác – Vừa không thật (không có hình dạng và luôn thay đổi – không cố định); vừa khó đoán định và không thể “giữ chặt” nhưng lại có tác động vô cùng lớn lao với mỗi chúng ta. Chúng ta luôn có xu hướng không ngừng tìm kiếm – Không ngừng xao động bất an, lên xuống “bất tận” (khi thì sung sướng, khi thì đau khổ) theo sự “đánh giá” của mọi người xung quanh: Khi họ khen thì ta mừng dẫu cái khen đó chẳng đúng với sự thật – Khi họ chê thì ta buồn dẫu cái chê đó chẳng đúng với sự thật.


“Cái tôi” càng kiêu mạn thì lời nói và hành động càng nặng nề chất “khoe khoang”: Sự đói khát tiếng khen càng bị bộc lộ – Tâm lý “hiếu danh” càng bị phô bày – Thậm chí, nếu quá tham muốn một thứ “danh tiếng” hay “uy tín” nào đó thì chúng ta có thể bất chấp cả việc gây tổn hại cho người khác chỉ để “tô quét” cho bản thân mình. Do đó, tâm lý háo danh, thích khoe khoang là một tâm lý nguy hiểm, có thể “dẫn dắt” ta tạo tác những ý nghĩ, lời nói và hành vi sai lầm (gây nghiệp xấu) để rồi phải gánh chịu nhiều đau khổ về sau.

Tuy cùng một hiện tượng (“khoe khoang” về mình), nhưng khác với tâm lý háo danh bản năng - Hành vi “lừa đảo” có mục đích sau cùng là khống chế, lừa đảo tinh thần, tiền bạc, tài sản của người khác. Bạn có biết hay không? Châm ngôn của Marketing là “Nói mãi một điều không thật thì nó sẽ thành sự thật” – Loài người chúng ta cực kỳ “nhẹ dạ” trước những lời “xác quyết mạnh mẽ” – Và ngành lừa đảo luôn tận dụng triệt để “điểm yếu” này mà khiến cho chúng ta rơi vào trạng thái “cả tin”.

(*)

Khoe khoang là nói quá nhiều về bản thân, nhưng “nói ít” hay “quá ít” về mình hoặc những quan điểm, ý kiến, góc nhìn của mình cũng chưa hẳn đã là người “Kín đáo” - Bởi rất nhiều khi chúng ta “ít nói” là vì thực sự chúng ta chẳng có gì/chẳng biết gì để nói; hoặc do bản tính thô lỗ, cộc cằn trong ta quá lớn – Mỗi lời nói ra đều bộc lộ sự hung dữ, ác độc, nhẫn tâm (làm người khác sợ hãi, không dám đến gần) nên ta phải cố giấu mình cho kỹ.

Người thâm sâu hiểm độc là những người không loanh quanh kiếm tìm những khoái cảm lặt vặt từ khoe khoang – khoác lác mà mưu tính những “lợi ích” sâu xa hơn, lớn lao hơn (Thiên về việc tranh đấu - giành giật phần hơn về mình) nên họ luôn ý thức giữ gìn “sự bí mật” để đảm bảo “thành công” – Họ “Kín đáo” một cách “khôn ngoan”.
Nhưng cho dù một người hoàn toàn không có ý xấu với cuộc đời, chỉ một lòng muốn làm những điều lợi ích cho mọi người thì cũng phải có ý thức “giấu mình” vì “khôn ngoan” này: Bởi song hành với “Khoe khoang – muốn mình hơn tất cả” là  “Đố kỵ - không muốn ai bằng mình” – Hai thứ bản năng sẵn sàng trở thành vũ khí sát thương “hạng nặng” vẫn luôn hiện hữu trong “lòng dạ” của mỗi “con người” suốt nhiều ngàn năm qua. Nếu bộc lộ bản thân với ý tốt mà thiếu sự khôn ngoan (không tính đến sự “thích hợp” của hoàn cảnh) thì chúng ta cũng sẽ bị “triệt hạ” ngay lập tức bởi những tâm hồn đố kỵ và ác tâm - Để rồi rốt cùng cũng chẳng còn “tồn tại” để mà làm được bất cứ điều gì tốt đẹp cho mọi người.

(*)

Nếu cho riêng mình thì lời khoe khoang nhất định phải trừ bỏ vì tâm lý “háo danh” bệnh hoạn trong mỗi chúng ta vốn đã quá nặng nề - Vấn đề là phải làm nó “thuyên giảm” chứ không phải “xoa dịu - vỗ về” để rồi bệnh càng thêm bệnh.

Nhưng có rất nhiều khi chúng ta cũng cần phải chia sẻ về mình (làm một ví dụ, một tấm gương nho nhỏ) để cổ vũ, khích lệ mọi người tiến lên trong cuộc sống: Nếu lúc này ta từ chối vì sợ làm nặng thêm bệnh “háo danh” của mình thì ta sẽ trở thành một người ích kỷ; nhưng nếu ta cứ nói ra “ào ào” mà không có sự kiểm soát thì hẳn nhiên “cái tôi” của chúng ta sẽ càng lúc càng phình to ra và nổ tung vào một thời điểm thích hợp.

Vậy nên, làm được năm thì chỉ được nói ra một (Tỷ lệ: 5:1) – “Có” càng nhiều mà “chi” càng ít thì càng giàu – Làm được càng nhiều mà “bộc lộ - chia sẻ” càng ít thì càng “đi tiếp” được dài lâu, bền vững. Tự nói ra một “ưu điểm” của bản thân thì ngay lập tức phải chèn vào vài ba “khuyết điểm” để “tự cân bằng” lại – Điều này đồng nghĩa với việc, chừng nào ta có khả năng tự nhìn nhận ra vô vàn khuyết điểm của mình thì chừng đó ta mới có đủ năng lực“tự bộc lộ” bản thân mà “khuyến khích” người khác.

(*)

“Tôi chẳng có lỗi gì cả”, “Tôi chẳng làm gì sai cả”, “Tôi không có gì xấu để mà phải tu hay sửa”, v.v…Tôi và bạn – Tất cả chúng ta đều đã từng nói ra những lời tương tự như vậy. Vì “cái tôi” bên trong mỗi chúng ta quá lớn – Nó che lấp hết mọi lỗi lầm của ta, nó cho ta cái “ảo tưởng” rằng trong ta chỉ toàn những điều “tốt đẹp”, còn xấu xa chỉ “tồn tại” trong người khác mà thôi. Vậy nên, ai cũng tự nhận mình là người tốt (người có “tu tâm”) nhưng thực tế là thế giới vẫn luôn chật kín những thói hư tật xấu và những “cái tâm” (tâm tính) chẳng hề “có tu” một chút nào.

“Không thấy được lỗi mình” nên chúng ta không hình thành được tâm lý “sửa lỗi” và con đường “chuộc lỗi” để bản thân được ngày một tốt lên, cuộc đời ngày một tươi sáng lên. Không nhìn ra được cái hay của mọi người xung quanh nên mỗi ngày chúng ta đã “vùi dập” không biết bao nhiêu những “nụ hoa” của thế giới: Vì ta ghét nên dẫu “người” có mười điều tốt ta cũng phủ nhận tất cả, chà đạp tất cả. Vì ta không ưa nên dẫu “người” có trăm ngàn điều tốt ta cũng chẳng mảy may ngó ngàng, khích lệ. Vì ta “căm hờn” nên dẫu “người” có cả vạn điều hay ta cũng quyết lòng “tiêu diệt” cho “biến mất” khỏi mắt mình, v.v…

Ta sẽ không bao giờ có khả năng “nhìn nhận” lỗi lầm của mình và “thừa nhận” cái hay của người khác nếu không có những phút lắng lòng trong yên tĩnh – Nếu không có những khoảng thời gian lắng đọng - Không lăng xăng chạy nhảy hay tìm cầu, loạn động. Như mặt hồ nước nếu cứ cuộn sóng ào ào, bọt tung trắng xóa thì ngoài bọt ra sẽ chẳng thấy bất cứ điều gì – Nếu “tâm trí” ta cứ mãi loạn động trong kiểu suy nghĩ “cố hữu” rằng “mình hay – người khác dở” thì ta cứ việc lặn hụp cuồng điên trong những ảo tưởng về bản thân mình.

Hãy một lần đứng vào một vị trí khác, thay đổi một góc nhìn khác – một lối tư duy khác về bản thân mình: Tĩnh lặng hơn một chút, khiêm tốn hơn một chút, bao dung hơn một chút, thương yêu hơn một chút – Để dần thoát khỏi bóng tối của “cái tôi” bản năng cuồng điên, khờ dại; Để mỗi ngày một biết thêm rằng - Ta và người tất cả đều như nhau, tất cả đều đầy những thói hư tật xấu, những “tật bệnh” trong tâm lý và những “nỗi đau khổ” trong cuộc đời; Để dần biết “nghiêm khắc” với bản thân hơn và “khoan dung” với mọi người hơn -  Để đạo đức bản thân của ta mỗi ngày một hoàn thiện hơn và cuộc sống quanh ta mỗi ngày một thân ái, dễ chịu hơn cho tất cả mọi người.  

Thiền để làm gì? – Cũng chỉ là như vậy. Gột rửa sạch sẽ cái “tâm” của mình mỗi ngày.

“Tu tâm” là gì? – Chính là bất kể chuyện gì xảy ra cũng đều xoay vào bên trong để “tìm lỗi mình” trước. Bớt trách đời, dứt trách người và luôn nhận trách nhiệm về mình.

(*)

Trong chiến trận, trên thương trường, trong tâm lý, trên con đường “tu tập – sửa mình”, v.v… Bất cứ lĩnh vực nào cũng cần tới sự “bí mật” và “kín đáo”. Nếu mới có chút gì hay cũng “oang oang” phách lối thì cuối cùng cũng chẳng đi tới đâu. “Nói trước thì bước không qua” là bài học muôn đời ông bà xưa truyền lại: Trên đời này, mọi việc đều là những biến cố bất thường, dùng một lời “khẳng định” để nói về một điều “bất định” thì đủ hiểu là mang dây buộc mình. Làm được thì cũng thường (vì đã tuyên bố rồi) mà làm không được thì mất uy tín, tổn thất lòng tự tin.

Có một lý thuyết phương Tây khuyên rằng: Nên nói ra dự định của mình trước mặt “nhiều người” để tự gây sức ép buộc bản thân phải vượt qua “tính ỳ” để thành công nếu không muốn bị “mất mặt”. Điều này có thể đúng với những người sẵn sàng sống chết vì “danh dự” bản thân – Nhưng sẽ không đúng với phần lớn tất cả chúng ta. Đó là lý do vì sao câu tục ngữ của các cụ xưa vẫn truyền khẩu muôn đời còn “chiêu thức tâm lý” này thì có vẻ không phổ biến lắm. Dù sao thì, lựa chọn như thế nào là quyền của mỗi người.

(*)

Nếu đã gọi là bản năng thì vô cùng khó khăn để “ngăn trở”. Như bản năng là phải ăn – Không ai có thể không ăn. Bản năng là phải sống – Tất cả chúng ta luôn nỗ lực từng ngày để “kiếm” sống. Bản năng của các loài hữu tính là giao phối, sinh sản  - Tất cả các loài sinh vật đều phải không ngừng kết cặp và sản sinh thế hệ sau kể cả con người mặc dù chúng ta hoàn toàn có quyền “tự lựa chọn”, v.v…

Do đó, để có thể hình thành được sự "Kín đáo" trong tâm - “đi ngược” lại bản năng thích khoe khoang – Không muốn nói về bản thân mình và những cái hay của mình cho người khác biết phải cần tới một sức mạnh nội lực rất lớn.
Nhưng chừng nào còn muốn bản thân mình ngày một tốt đẹp hơn, đạo đức hơn, bình an hơn, hạnh phúc hơn, v.v… thì chừng đó ta còn phải tự dặn mình phải luôn “Kín đáo” - Không những vì sự “khôn ngoan” mà quan trọng nhất vẫn là ta phải tự mình thấy được – Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, tấ cả chúng ta thật sự chẳng có gì đáng để khoe khoang cả.

Nếu thành tựu của chúng ta là 10 thì những sai trái, lỗi lầm, thiếu sót, thiếu hụt, bất toàn, bất cập, v.v… của chúng ta còn gấp trăm ngàn lần hơn như vậy. Một phút giây thỏa mãn – Một lời nói khoe khoang là ta đã tự đẩy mình vào vị trí bất lợi hơn trên hành trình hoàn thiện bản thân. 






Friday, June 7, 2019

Sự hòa hợp

Tất cả chúng ta luôn phải chung sống với rất nhiều người - rất nhiều “nguồn” ý muốn khác nhau. Ngay trong một gia đình cũng đã là muôn vàn sự khác biệt – muôn vàn những yêu cầu, đòi hỏi, ước mong, sở thích, v.v… cần được người nhà “hiểu” “chiều” nếu không muốn xảy ra “va chạm”.

Vậy ai sẽ hiểu - sẽ chiều ai đây?

Trong bất cứ một đời sống chung nào – Trong bất cứ một cộng đồng nào – Tất cả các thành viên đều phải có khả năng và kỹ năng dẹp bỏ “cái tôi” của mình mà chiều ý những “cái tôi” khác khi cần – Vì lợi ích của cái “Chung”. Chừng nào lợi ích của cái “Chung” không còn được những cái “riêng” vun bồi nữa thì chừng đó, sự tan rã và đổ vỡ của khối chung đó – của cộng đồng đó chỉ còn là vấn đề thời gian.

Nhu cầu được làm theo ý mình của mỗi chúng ta đều rất lớn, vì ai cũng có một “cái tôi” khác biệt với mọi người và muốn được “tự do” không “ngăn ngại”. Chúng ta thường mù quáng chạy theo “cái tôi” – chạy theo “ý riêng” của mình mà không ý thức được rằng trong chúng ta còn một nhu cầu “to lớn” không kém cần được “thỏa mãn” là được sống chung với con người – Được thuộc về một cộng đồng phù hợp. Chỉ tới khi rơi vào trạng thái cô đơn, cô độc, bị mọi người xa lánh – chán ghét, không muốn “chơi”, không muốn “xài” thì chúng ta mới ước ao: Phải chi ngày đó chịu khó hơn một chút, hiền và ngoan hơn một chút.

Giao tiếp giữa “Người và Người” là một nhu cầu bức xúc cần được thỏa mãn từ sâu trong bản năng của mỗi con người. Sống hoàn toàn không có con người xung quanh, nhiều đứa trẻ đã trở thành “thú vật”. Sống cô đơn, cô độc trong nhiều tháng, nhiều năm (mà không có bản lĩnh, ý chí và đường lối tu tập đúng đắn) thì chúng ta sẽ trở nên bất ổn về tâm lý và xuất hiện trạng thái “thèm người” – Khao khát được nhìn thấy con người, được tiếp xúc, được nói chuyện – Tới nỗi, một khi đã rơi vào tình trạng nặng nề rồi thì hễ thấy bất cứ một ai – dù là người mình không quen hay đã từng vô cùng ghét bỏ chúng ta cũng sẵn sàng lao vào ôm lấy mà mừng vui, hớn hở.

Trong đời sống thượng tôn “cá tính” – chúng ta thường nhầm lẫn nghiêm trọng giữa “khác biệt”“dị biệt”. Mặc dù cả hai đều “không giống” với bình thường, nhưng một bên là phi thường còn một bên là “bất thường” - Chúng khác nhau “một trời một vực”.

Trong khi “Khác biệt” là những yếu tố có tác động tích cực và tới cuối cùng sẽ luôn được mọi người chấp nhận – Muốn tạo ra “khác biệt” phải trải qua một quá trình rất khó khăn, vất vả, vì không những cần hiểu biết rất nhiều mà còn phải có sự trải nghiệm thực tế cùng khả năng “tư duy sáng tạo” rất lớn; Còn “Dị biệt” thì rất dễ tạo ra vì nó thường thuận theo “bản năng” lười biếng, dễ dãi, buông tuồng, nhiều tham muốn cá nhân của chúng ta: Như rất dễ để trở thành một đứa trẻ hư hỏng bất cần đời – bất cần người, rất dễ để trở thành một người đàn ông lười biếng – dị hợm – ba hoa, rất dễ để trở thành một người phụ nữ buông thả - sa ngã – ăn chơi đua đòi, rất dễ để trở thành một cá nhân vô ích – vô kỷ luật – lập dị - tách biệt trong cộng đồng, v.v… Và càng “dị biệt” thì chúng ta càng nhanh chóng bị “đá” ra khỏi cộng đồng.

(*)

Trong thực tế, mỗi chúng ta luôn trong trạng thái “thuộc” về một cộng đồng nào đó (gia đình, làng xóm, trường học, công sở, quê hương, đất nước, nhóm bạn làm ăn, nhóm bạn học hành v.v… ) - Và cộng đồng nào cũng đòi hỏi chúng ta phải có trách nhiệm - bổn phận tương ứng trong vai trò là một thành viên. Như trong một gia đình, một người con cần chăm chỉ học hành, phụ giúp công việc vừa sức, nghe lời người lớn; một người mẹ cần quán xuyến công việc nhà, dạy dỗ con cái, phụ giúp kinh tế khi cần ; một người cha thì phải làm trụ cột trong gia đình cả về kinh tế và các mối quan hệ xã hội - đem lại “an ninh” cho cả nhà, v.v…

Khi mỗi thành viên trong cộng đồng đều hoàn thành những trách nhiệm và bổn phận “được giao” thì cộng đồng sẽ trở nên ổn định, bền vững – Làm thành một môi trường lý tưởng cho các cá nhân có thể phát huy hết mọi năng lực và phẩm chất tốt đẹp tiềm tàng. Như cách các loài cây nương nhau tồn tại trong một khu rừng vậy: Khi đứng cạnh bên nhau, chúng ta sẽ có đủ khả năng để tận dụng mọi cơ hội và đủ sức mạnh để đương đầu với mọi biến cố lớn lao.

Chúng ta không thể sống nếu thiếu tập thể và tập thể thì không thể “sống” nếu thiếu sự “hòa hợp” – Duy trì sự “hòa hợp” là giải pháp duy nhất để một tổ chức tồn tại  lâu dài - “Sống hòa hợp” là con đường duy nhất để một cá nhân tồn tại trong xã hội. Nhưng sự “hòa hợp” luôn bị đặt trong tình thế giằng co quyết liệt giữa cái “chung” và cái “riêng”, nên rất cần phải có những “Bộ quy tắc ứng xử” hợp lý, cụ thể, rõ ràng - Được cả cồng đồng tự nguyện tuân thủ để làm vị “trọng tài” công tâm trong các cuộc “giằng co” đó.

(*)

Sau đây, xin được giới thiệu với các bạn bộ quy tắc “Lục hòa” (Sáu sự hòa hợp) trong tăng đoàn của Đức Phật để chúng ta cùng nhau tìm ra những ứng dụng thiết thực cho cuộc sống của mình.

1.   Hòa hợp trong nề nếp sinh hoạt (Thân hòa đồng xứ)

Khi chung sống cùng nhau, người mới tới cần học hỏi “nề nếp sinh hoạt chung” với những người đã đến trước từ lâu. Đồng thời, cả người đến trước và người đến sau đều phải có ý thức trong việc nỗ lực “dung hòa” những “khác biệt” mang tính cá nhân để tạo dựng sự nương tựa, tin cậy, giúp đỡ lẫn nhau trong đời sống. Người tới trước phải chủ động bao dung, nhường nhịn, hy sinh cho người tới sau còn nhiều bỡ ngỡ, lạ lùng. Người tới sau phải ý thức về sự “thiếu hiểu biết” của mình trong một môi trường mới để nhún nhường, khiêm hạ, nhu thuận (dễ dàng vâng lời) theo những chỉ dẫn của những người tới trước một cách vui vẻ.

Thói quen mỗi người mỗi khác, nhưng khi vào một tập thể thì tất cả mọi người đều phải tuân thủ một “thói quen chung” – Một thời khóa chung. Và tất cả những sự khác biệt mang tính “cá thể” làm ảnh hưởng tới nề nếp chung đó thì đều bị triệt tiêu, loại bỏ không thương tiếc.

Nên rất nhiều người “sợ hãi” đời sống tập thể vì những “khó chịu” mà nó gây ra. Những nội quy giữ gìn “nề nếp sinh hoạt chung” trở thành những “vật cản” ngăn trở chúng ta nuông chiều, “thỏa mãn” bản thân theo những thói quen đã cũ (tập khí) – Mà khi những nhu cầu bản năng không được thỏa mãn “như ý muốn” thì những cảm giác khó chịu, bực bội sẽ ùn ùn phát khởi trong tâm ta. Người nào có “bản năng” càng lớn thì những thúc bách trong “nội tâm” càng bùng phát dữ dội - Càng khiến cho ta dễ dàng nóng giận, tức tối và nhanh chóng chán ghét nếp sống mới hơn.
 
Nhưng đâu phải mình ta mới có “cái tôi”? Đâu phải mình ta mới có một “bản năng” to lớn “thích được nuông chiều”? Đâu phải ta luôn luôn có thể sống đơn độc một mình mà không cần quan hệ với bất cứ ai? Không học được cách chung sống vui vẻ, hòa hợp trong một tập thể là một tín hiệu “rõ ràng” của một bản lĩnh yếu kém và một cuộc đời thất bại.

Để dễ chấp nhận mọi chuyện hơn, chúng ta phải luôn ghi nhớ rằng: Mặc dù mình đang phải vì mọi người mà từ bỏ “lối sống cá nhân” nhưng sự thật là tất cả mọi người cũng đã phải “vì mình” mà từ bỏ những lối sống cá nhân của họ - Đây là sự công bằng và tình thương yêu mà chúng ta cần phải có để dành cho nhau. Mỗi người nhường nhịn một chút, hy sinh một chút để đem tới sự “dễ chịu tối đa” cho tất cả mọi người.

Vì vậy, chung sống trong một tập thể càng lớn thì những “cái tôi” càng nhanh chóng bị tịch thu “đất sống” – Càng giúp cho chúng ta tiêu diệt “bản ngã” nhanh hơn, tăng cường bản lĩnh chịu đựng gian khó và khả năng “điều phục” (chế ngự - chuyển hóa) những bản năng tiêu cực trong nội tâm mình (biếng nhác, ham ăn, ham ngủ, vô ý thức, vô kỷ luật, v.v...).

Bước số một tiến vào đời sống tập thể: Từ bỏ “thói quen” cá nhân.

2.    Hòa hợp trong ngôn ngữ (Khẩu hòa vô tranh)

Đức Phật dạy ta phải biết nói những lời êm dịu, tao nhã, khả ái, đem lại lợi ích cho mọi người – Khiến mọi người cảm thấy dễ nghe, dễ chịu và muốn nghe hoài – nghe mãi để thiết lập nên nhiều mối quan hệ tốt đẹp với nhau. Mà lời nói khả ái, êm dịu, dễ nghe thì chỉ có thể đến từ một nội tâm giàu lòng yêu thương, nhân ái – Nên nếu trong tâm ta không có những hạt mầm thương yêu lành thiện thì càng luyện tập nhiều “thủ thuật” về giọng nói - Ta càng trở nên “không thật” trong mắt mọi người.  
Sự chung đụng giữa những điều khác biệt (những “cái tôi”) không thể nào tránh khỏi “va chạm”. Không xử lý tốt những va chạm nhỏ thì chuyện bé xe ra to, chuyện to thành đổ vỡ. Ghi nhớ rằng: Trong bất cứ tình huống nào, giải pháp tối ưu luôn luôn là “Nhẫn nhục”: Không phản ứng vội vàng – Định tĩnh trong nội tâm (chỉ) để không nóng giận làm phức tạp tình hình - Nhìn nhận toàn diện sự việc (quán): Xét lỗi mình, “hiểu cho” góc độ của người đối diện – Cuối cùng là ý thức sửa lỗi mình, rút kinh nghiệm để không “tái phạm” và bình an để mọi chuyện đi qua.

Những nguyên nhân căn bản gây ra xung đột trong đời sống cộng đồng là nói xấu người khác (dù có ác ý hay chỉ đơn thuần là muốn “mua vui”); Có bất đồng nhưng không trực tiếp đến với nhau để “gỡ bỏ” mà lại đi “lòng vòng” làm mọi chuyện ngày càng thêm phức tạp; luôn “xét lỗi” người mà không lo sửa lỗi mình hoặc “sửa lỗi nhau” không đúng lúc, đúng chỗ.

Đặc biệt trong tiếng Việt còn có một nguyên nhân gây xung đột rất lớn đến từ những đại từ “xưng hô”: Những đại từ phổ thông trong “dân gian” (thằng, con, nó, mày, tao,…) khi bình thường thì có vẻ bình dị, gần gũi, thậm chí “thân thiết” – Nhưng khi xảy ra xung đột (khi “tâm thức” của tất cả mọi người đều “sục sôi” ý nghĩ đối phương đang “nhục mạ - coi thường” mình) thì chẳng khác nào xăng A92 đổ thêm vào lửa.

Bước số hai tiến bào đời sống tập thể: Luôn tự dặn lòng mình thương yêu tất cả mọi người để nói được những lời ái ngữ. Có ý thức trong việc loại bỏ các nguyên nhân gây “bùng nổ” xung đột và thành thạo kỹ năng “Nhẫn nhục” để giải quyết xung đột trong bình yên.

3.    Cùng nhau tuân thủ những điều luật chung (Giới hòa đồng tu)

Một tập thể cấu thành từ nhiều cá thể khác nhau, cũng giống như một cỗ máy lớn cấu thành từ nhiều chi tiết nhỏ - Cần tuân thủ “tuyệt đối” những nguyên tắc và quy định “bắt buộc” trong quá trình vận hành để đảm bảo bộ máy hoạt động “trơn tru”. Cũng vậy, bất cứ tổ chức nào muốn có sự hoạt động ổn định, hài hòa giữa nhiều “cá thể” khác biệt thì bắt buộc phải “lên” cho được hai danh sách đầy đủ - hợp lý về những điều “phải làm” và “không được phép làm” (Những chuẩn mực, điều luật và nguyên tắc) để mỗi thành viên có cơ sở tự điều chỉnh hành vi của mình cho thích hợp.


Kỷ luật trong đời sống hay “Giới luật” trong nhà Phật đều là tập hợp những công cụ “bảo hiểm” cho đời sống của chúng ta “đi” trong an toàn và “hiệu quả”. Bởi “cái tôi” trong chúng ta thực sự rất ngu si và thường hay sai lầm. Nếu cái gì cũng nghe “bản năng mách bảo” thì chúng ta sẽ “lầm lạc” rất nhiều. 

Từ mấy ngàn năm qua, đạo Phật không hề có một “chế tài xử phạt” nào trong hầu hết tất cả các trường hợp vi phạm “Giới luật”. Vậy tại sao các “Giới luật” đó còn được bảo lưu tới tận ngày hôm nay? Sức mạnh thực sự đã “duy trì” những “Giới luật” này nằm ở đâu? - Đó chính là tính “hợp lý tự thân” của mỗi một giới luật. Bất cứ ai nghiêm túc thực hành thì đều nhận thấy được “công năng” của “Giới” và rồi “tự nguyện” ra sức giữ gìn - Nhiều người cùng tự nguyện giữ gìn khiến “Giới luật” được lưu truyền đầy đủ tới tận ngày hôm nay.

Mấy ngàn năm qua cũng vậy mà mấy ngàn năm sau cũng vậy: không sát hại sinh vật thì được an ổn, không dối trá gian manh thì được an ổn, không tà dâm ngoại tình thì được an ổn, không đua đòi trộm cắp thì được an ổn, khi ngủ nằm nghiêng về bên phải thì “bảo hộ” được tim – thuyên giảm “mộng mị”, giữ gìn nơi ở sạch sẽ và đặc biệt trú trọng giữ sạch nhà vệ sinh thì đời sống được mạnh khỏe – an vui (Lưu ý rằng, vào mấy ngàn năm trước – chả có ai “bận tâm” tới cái “toilet” cả!), v.v…  

Như vậy, muốn giữ được “kỷ luật” một cách “thoải mái” – không “khó chịu” thì ta phải thay đổi cách nhìn và quan niệm của mình về những quy định bắt buộc trong một tập thể -  Ý thức rõ đây là những bức tường “bảo hộ” mình khỏi những nguy hiểm, sai lầm và thất bại – Thay vì luôn nghĩ chúng là những bức tường giam hãm - tước bỏ “tự do” của mình.

Phải biết rằng: Buông bỏ những “tự do” bản năng tầm thường, ta sẽ có được những “Tự do” lo lớn hơn trong đời sống.

Bước số ba tiến vào đời sống tập thể: Tuân thủ kỷ luật chung.

4. Hòa hợp trong những cái “Thấy – Biết” (Kiến hòa đồng giải)

Nếu mọi kiến thức và hiểu biết may mắn có được ta đều cất giấu kín, “giữ chặt” cho riêng mình – Không chia sẻ với ai thì chuyện gì sẽ xảy ra?

Phương Đông “huyền bí” là nơi khai hóa ra rất nhiều kiến thức và hiểu biết khoa học trước cả Phương Tây “năng động”, nhưng vì người phương Đông có “tập tính” quá ích kỷ - không chịu chia sẻ hiểu biết và kinh nghiệm cho cộng đồng mà chỉ truyền trao luẩn quẩn trong gia đình, họ tộc nên “quả báo” là xã hội phương Đông ngày nay gần như toàn bộ đều trở thành kẻ chạy theo “đuôi” xã hội phương Tây: từ lối sống, cách ăn mặc, cách tư duy, cách giáo dục cho tới mọi thứ phương tiện – công cụ thường ngày.

Sự “chiếm đoạt” kiến thức và hiểu biết cho riêng mình sẽ không giúp ta đạt được thành công trong cuộc sống vì chẳng ai muốn “hợp tác” với những người chỉ bo bo nắm giữ lợi thế cho riêng mình – Mà thành công càng lớn thì càng cần nhiều sự trợ sức và giúp đỡ của mọi người. Hơn nữa, khi ta không chia sẻ những điều ta biết cho tập thể thì cả tập thể chỉ còn mình ta giỏi! – Và khi một tập thể hầu hết là người dở thì nó buộc phải tan rã – Ta vì vậy cũng sẽ chẳng còn “đất sống” mà tiếp tục “huênh hoang”.

Vậy nên, biết được gì hay, học được gì mới hãy chia sẻ cho tất cả mọi người để chúng ta cùng nhau đi lên. Nếu mỗi người có một cái hay “chịu” chia sẻ thì cả tập thể sẽ có rất nhiều cái hay để “trao đổi” cho nhau – Mỗi một có nhân sẽ có rất nhiều cái hay để cùng nhau góp sức xây dựng tập thể. Đi chung với tập thể tuy không nhanh nhưng chắc chắn sẽ được xa hơn rất nhiều khi đơn bước độc hành.

Bước số 4 tiến vào đời sống tập thể: Hãy chia sẻ tất cả những kiến thức và hiểu biết mình có được với tất cả mọi người.


5. Hòa hợp trong “Tâm ý” (Ý hòa đồng duyệt)

“Bằng mặt mà không bằng lòng” là phương châm sống của rất nhiều người trong số chúng ta. Để tránh bị “mích lòng”, nhiều khi chúng ta cứ tỏ ra vui cười, đồng thuận cho “qua” mọi chuyện mà chẳng hề cảm thấy vui vẻ hay yêu thích gì người đối diện. Tệ hơn nữa là trước mặt thì đồng tình mà sau lưng lại chống phá. Một tập thể không bao giờ hòa hợp được nếu trong nội bộ còn dung dưỡng những cá nhân gian dối như vậy.

Nhiều thành viên “giả đối” sẽ làm nên một tập thể giả gối. Một tập thể giả dối – không có sự cảm thông – hòa hợp thật sự, thậm chí luôn âm thầm chống phá, công kích lẫn nhau thì không có được sức mạnh đoàn kết. Tuy đứng chung một chỗ nhưng bản chất là đã rời nhau rất xa.

Luôn phải ý thức rằng: Chỉ “tập thể “ nào được xây dựng trên nền tảng của tình yêu thương thì mới có sự “hòa hợp” thật sự. Chừng nào chúng ta không còn muốn dành cho nhau sự thấu hiểu, cảm thông và chia sẻ nữa thì chừng đó tập thể của chúng ta đã bắt đầu đánh mất sự hòa hợp – đánh mất đi sức mạnh đoàn kết.

Đức Phật dạy ta, muốn tạo dựng được một đời sống “hòa hợp” thật sự thì phải lấy “tình thương” làm cái “nhân” chung để mọi người cùng chuyên tâm hướng về gieo trồng, chăm sóc - Từng bước “xóa nhòa” đi những khác biệt – Từng bước làm cho lòng yêu thương ăn sâu bén rễ, đâm chồi nảy lộc trong sâu thẳm tâm thức của mỗi người.

Bước số 5 tiến vào đời sống tập thể: Luyện tập phát khởi lòng yêu thương để “tâm ý” có được sự hòa hợp – đồng cảm với tất cả mọi người.

 6. Hòa hợp trong việc phân chia lợi ích (Lợi hòa đồng quân)

Sự “chính xác” đạt được khi lấy các “dụng cụ đo lường” làm tiêu chuẩn phân chia.

Sự “hòa hợp” đạt được khi lấy “tình thương và trí tuệ” làm tiêu chuẩn để phân chia.

Cân đo đong đếm để phân chia cho “chính xác” thì dễ, tất cả mọi người phải mặc nhiên công nhận. Nhưng sự phân chia cho “hợp lý” (theo nhu cầu và mức độ đóng góp cho tập thể) không những cần đảm bảo tính công bằng và thuận lợi tối đa cho số đông - mà còn phải nhận được sự “đồng lòng” rất lớn mỗi thành viên trong đoàn thể. Bởi lợi ích thì tới ngay một lúc, nguyên tắc là phải “chia đều” – Nhưng thực tế từng lúc thì bao giờ cũng có nhiều chênh lệch: Như trong lúc đó ta chưa cần nhưng người khác thì cần, trong lúc đó ta còn “nhịn” được nhưng người khác lại cần “nhiều” hơn mới đủ, v.v… Cho dù đã phân chia “hợp lý” rồi, nhưng không nhận được sự “đồng thuận” của tất cả mọi người thì tập thể đó cũng không đạt được sự hòa hợp.

Bước số 6 tiến vào đời sống tập thể: Chấp nhận rằng, rất nhiều khi trong đời sống, mắt ta nhìn và các loại “dụng cụ đo lường” không đủ khả năng để thể hiện một sự hợp lý. Phải có tình thương và con mắt trí tuệ để nhìn sâu hơn vào thực tế mà hiểu và chấp nhận mọi “chênh lệnh” trên hình thức thì mới có thể thoát khỏi những đố kỵ chi ly, vụn vặt, nhỏ nhặt của bản năng ích kỷ - Mới có thể chung sống hòa hợp, lâu dài với mọi người và được mọi người “bao bọc”, chở che mỗi khi xảy ra “biến cố”. Bởi gieo nhân hy sinh, chia sẻ thì mới có thể nhận được “quả” bảo bọc, giữ gìn.

(*)

Tóm lại, cội gốc của sự hòa hợp là lòng thương yêu. Vì chỉ có lòng thương yêu mới phát xuất ra được những chất liệu quý giá để xây dựng sự “hòa hợp” trong một tổ chức/đoàn thể/ tập thể/….như: tinh thần hy sinh, nhường nhịn, bảo bọc – che chở, đoàn kết - giúp đỡ lẫn nhau, v.v…
Bốn nguyên tắc bắt buộc phải tuân thủ trong quá trình xây dựng tinh thần hòa hợp là: Củng cố ý thức vượt lên trên sự “khác biệt” của mỗi cá nhân vì “sự hòa hợp” chung (không “tôn thờ” cái riêng thái quá); Tìm thật nhiều điểm tương đồng giữa mình và mọi người để tăng cường sự gắn kết; Mở rộng tầm nhìn và tự đặt cho bản thân những “sứ mệnh lớn lao” để không bị hao tâm tổn trí vào việc “so đo” những điều nhỏ nhặt – gây chia rẽ đoàn thể; Đặc biệt, với những người con Phật (Phật Tử): Phải luôn ghi khắc trong tâm – Mỗi ngày chúng ta sống là một ngày chúng ta bước đi trên con đường tiến về “Vô ngã” – Do đó, chúng ta không cần quan trọng “cái tôi” hay những cái “của tôi”. Nếu vứt bỏ “cái tôi” tới đâu mà tạo nên được sự “hòa hợp” - thăng tiến cho tập thể trong lâu dài thì cứ việc vứt bỏ tới đó. 

(*)


Trên đây là quy tắc “Lục hòa” để tạo dựng một đời sống hòa hợp trong “tập thể” những người đi theo con đường Đức Phật chỉ dạy. Hãy thử lấy bất cứ một trường hợp “xung đột” -  bất hòa nào, trong bất kỳ một tổ chức nào – bất cứ gia đình nào, ở bất cứ lĩnh vực/phương diện nào mà bạn biết - Đem ra phân tích theo sáu góc độ này, bạn sẽ thấy những “căn nguyên” đổ vỡ “hiện ra” vô cùng rõ ràng và cụ thể.

Những lời dạy này ra đời cách đây đã mấy ngàn năm, trong khi những khóa học về “Làm việc nhóm” hay “Quản lý xung đột”“Quản trị sự khác biệt” chỉ rầm rộ xuất hiện ở nước ngoài mấy chục năm trước và ở nước ta trên dưới chục năm nay nhưng bạn thấy đó: Những lời dạy của Đức Phật vẫn thể hiện được một lối tư duy toàn diện, sắc bén, cập nhập “bức xúc” thời đại chứ chẳng hề thua kém nếu không muốn nói là vượt trội hơn hẳn về tính cô đọng – súc tích thiết thực.

(*)

Đời sống có bao nhiêu lĩnh vực quan tâm thì Đức Phật có bấy nhiêu lời dạy hữu ích cho ta “tùy nghi” áp dụng: Từ vật lý – Toán học (cấu trúc “rỗng không” của vật chất, chiều kích không gian – thời gian trong vũ trụ, sự gợi mở về muôn ngàn sự sống trên các hành tinh khác, những con số cực lớn và cực nhỏ, sự tương đối  và tuyệt đối của vũ trụ, v.v…); Hóa học – Sinh học – Tâm lý học  - Y học (giải phẫu học, cơ chế tâm thức sinh tâm lý, căn nguyên bệnh tật, cách chữa bệnh béo phì – khô gầy – mất ngủ - căng thẳng/stress,…; thế giới của các vi sinh vật, sự hình thành của chúng ta cả trước và trong thai mẹ; cách thức luyện tập để có sự cân bằng cảm xúc và trí não, v.v…); Kinh tế học (quy luật phân phối của cải – vật chất, nguyên nhân gây sụp đổ nền kinh tế, cách thức làm giàu, cách phân phối thu nhập định kỳ, cách đầu tư và vận hành doanh nghiệp hiệu quả, mối tương quan giữa năng suất làm việc và trạng thái tinh thần của người lao động, nguyên nhân phản bội trong kinh doanh, hóa giải biến cố trong doanh nghiệp bằng tư duy Nhân Quả, cân bằng đời sống gia đình và việc làm ăn, …),v.v… 

Thế mới biết, không phải ngẫu nhiên mà phần lớn các nhà khoa họcBác học vỹ đại với tư duy logic,  lý tính - “khó lòng” tiếp nhận những sự “huyền hoặc” “kỳ bí” lại vô cùng yêu quý và ngưỡng mộ đạo Phật: Ngoài sự cao siêu, huyền bí, vô cùng khó hiểu và khó cảm nhận với trình độ của chúng ta - Đạo Phật còn vô vàn, không kể xiết những lý thuyết thực hành thiết thực - cụ thể trong đời sống hàng ngày - Những gì phần lớn người trẻ chúng ta ngày nay biết về đạo Phật (được "truyền thừa" từ các thế hệ ông bà, cha mẹ cách đây trên dưới vài trăm năm) chỉ là một "góc nhỏ" vô cùng "khiêm tốn" trong biển Phật Pháp bao la, vi diệu mà thôi.

Càng đi trong giáo Pháp nhiều bao nhiêu thì ta càng phải ngỡ ngàng bấy nhiêu trước sự “đứng lặng” của thời gian trong những lời Đức Phật dạy. Đức Phật hiểu rõ những con người của thế kỷ 20 - 21 chúng ta hôm nay tới từng chi tiết nhỏ - Trong khi chúng ta – Những con người tự cho mình là các “trí thức” thời hiện đại, gọi thời đại Đức Phật xuất hiện trên đời là "Cổ đại" thì mức độ “hiểu biết” về Người lại chẳng đáng “cát bụi” gì…